Viêm phế quản phổi không đặc hiệu là gì?

Posted on Tin tức 100 lượt xem

Viêm phế quản phổi không đặc hiệu thuộc vào nhóm bệnh viêm phổi kẽ tế bào không căn cứ. Đây là một loại viêm phổi kẽ mãn tính với đặc điểm chung là sự xuất hiện đồng nhất của viêm và xơ hóa mô kẽ. Thuật ngữ “không đặc hiệu” được sử dụng vì bệnh thiếu các đặc điểm mô bệnh học điển hình. Bệnh thường liên quan đến nhu mô phổi cả hai bên và có thể gây ra việc co thắt thường xảy ra ở các tuyến dưới.

1. Viêm phế quản phổi không đặc hiệu là gì?

Viêm phế quản phổi không đặc hiệu là một trong những dạng phổ biến thứ hai của bệnh phổi kẽ tế bào. Bệnh có hai dạng chính:

  • Viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu loại sợi: Là dạng phổ biến nhất, thường có dự đoán không tốt.
  • Viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu loại tế bào: Ít phổ biến hơn, nhưng có dự đoán tốt hơn nhiều vì phản ứng tốt với điều trị.

viem phe quan phoi khong dac hieu la gi 1

Trên hình ảnh từ quá trình chẩn đoán, những đặc điểm chung nhất của viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu là độ mờ kính nền tương đối đối xứng ở cả hai bên với mạng nhện và làm giảm thể tích phổi, gây ra giãn phế quản do lực căng trong quá trình hô hấp.

2. Nguyên nhân gây ra viêm phế quản phổi không đặc hiệu là gì?

Viêm phế quản phổi không đặc hiệu có thể do nguyên nhân không rõ hoặc liên quan đến bệnh mô liên kết, nhiễm HIV, nhiễm độc tố hoặc nhiều nguyên nhân khác. Nguyên nhân phụ của viêm phổi kẽ tế bào có thể bao gồm:

  • Bệnh mô liên kết: Viêm phổi kẽ tế bào thường là một dạng phổ biến của các bệnh mô liên kết tiềm ẩn, bao gồm xơ cứng hệ thống, viêm đa cơ/viêm da cơ, viêm khớp dạng thấp và hội chứng Sjogren.
  • Do thuốc: Amiodarone, methotrexate, nitrofurantoin, các tác nhân hóa trị liệu và statin.
  • Nhiễm HIV: Ngày nay, viêm phổi kẽ tế bào ít phổ biến hơn sau khi sử dụng phổ biến các liệu pháp kháng retrovirus.
  • Viêm phổi kẽ tế bào có các đặc điểm tự miễn dịch: Những bệnh nhân này có bằng chứng viêm phổi kẽ tế bào trên sinh thiết phổi và các đặc điểm của bệnh tự miễn dịch không liên quan đến mô liên kết cụ thể.
  • Viêm phổi quá mẫn: Ở một số bệnh nhân, sinh thiết phổi thiếu u hạt và có một số tế bào lớn qua mô bệnh học, có sự xuất hiện của viêm phổi kẽ tế bào.
  • Các bệnh khác: Bao gồm bệnh toàn thân liên quan đến IgG4, viêm phổi kẽ gia đình và bệnh ghép so với vật chủ.

3. Triệu chứng của viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu ra sao?

Viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu thường thể hiện qua các triệu chứng phổ biến nhất như khó thở và ho tiến triển từ vài tuần đến vài tháng. Bệnh nhân cũng có thể trải qua các triệu chứng như sốt, sụt cân, và các dấu hiệu giống cúm. Nếu bệnh đồng điệu hệ thống, họ có thể gặp khô miệng, khô mắt, đau khớp, sưng khớp, đau cơ, khó nuốt, thay đổi da hoặc các biểu hiện khác.

Khi tiến hành đánh giá lâm sàng, việc tìm hiểu về tiếp xúc với các chất gây dị ứng trong không khí, danh sách thuốc sử dụng, tiền sử tiếp xúc với bức xạ, các yếu tố nguy cơ HIV và triệu chứng liên quan đến bệnh mô liên kết, cũng như tiền sử gia đình là rất quan trọng.

Để chẩn đoán viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu, các xét nghiệm phòng thí nghiệm cần được thực hiện kèm theo một đánh giá huyết thanh phù hợp. Xét nghiệm HIV cũng cần xem xét nếu có các yếu tố nguy cơ tương ứng.

Trên hình ảnh X-quang ngực, có thể quan sát được tăng lên cơ bản và/hoặc mô kẽ hai bên nổi rõ trong viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu. Tuy nhiên, chụp cắt lớp vi tính với độ phân giải cao của lồng ngực là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu từ hình ảnh. Phát hiện thông thường bao gồm tăng dấu hiệu lưới, giãn phế quản do lực căng, giảm thể tích và thâm nhiễm chủ yếu ở vùng thấp hơn.

Sinh thiết phổi cũng có thể hỗ trợ việc xác định chẩn đoán, mặc dù không luôn cần thiết. Yêu cầu sinh thiết cần phải được xem xét trong bối cảnh lâm sàng cụ thể, bao gồm cả việc xác định liệu có cần quy trình cơ bản hay không, và mức độ nghiêm trọng của tổn thương phổi. Ví dụ, nếu nguyên nhân được nghi ngờ là do thuốc, việc thực hiện can thiệp sinh thiết có thể không cần thiết. Ngược lại, trong trường hợp không xác định được nguyên nhân, việc sinh thiết phổi có thể cần thiết để chẩn đoán.

viem phe quan phoi khong dac hieu la gi

4. Phương pháp điều trị viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu là như thế nào?

Việc điều trị viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu phụ thuộc vào nguyên nhân và mức độ nghiêm trọng của bệnh:

  1. Bệnh nhẹ: Những bệnh nhân này thường có các triệu chứng nhẹ và suy giảm tối thiểu trong chức năng phổi. Đôi khi, việc theo dõi triệu chứng có thể là cần thiết để theo dõi sự tiến triển của bệnh.
  2. Bệnh từ trung bình đến nặng: Điều trị bao gồm sử dụng steroid toàn thân như prednisone với liều khởi đầu từ 0,5 đến 1 mg/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày, sau đó giảm dần theo chỉ định. Ngoài ra, có thể sử dụng các loại thuốc ức chế miễn dịch thứ hai như azathioprine hoặc mycophenolate.
  3. Bệnh nặng có thể cần nhập viện: Trường hợp này có thể yêu cầu việc sử dụng methylprednisolone với liều tấn công rồi tiếp tục với liệu pháp prednisone toàn thân như đã mô tả trước đó.
  4. Bệnh kháng trị: Có thể cần xem xét việc sử dụng các loại thuốc khác như cyclophosphamide, rituximab hoặc calcineurin đối với các trường hợp không đáp ứng với điều trị trước.

Trong quá trình điều trị, quan trọng phải theo dõi các tác dụng phụ của steroid và đánh giá liên tục rủi ro và lợi ích của liệu pháp. Ngoài ra, cần xem xét điều trị phòng ngừa viêm phổi do Pneumocystis jiroveci đặc biệt đối với những người sử dụng steroid hoặc thuốc ức chế miễn dịch.

Nếu có nguyên nhân cụ thể gây ra viêm phổi kẽ tế bào, điều trị cần tập trung vào loại bỏ nguyên nhân hoặc điều trị bệnh cơ bản.

Tóm lại, viêm phổi kẽ tế bào không đặc hiệu là một dạng viêm phổi kẽ tế bào mãn tính. Quản lý bệnh này thường phức tạp và đòi hỏi sự theo dõi kỹ lưỡng cũng như sự hợp tác giữa các chuyên gia trong việc quản lý lâu dài để cải thiện tiên lượng của bệnh nhân.